Lịch sử hình thành
Từ thuở sơ khai, con người đã làm quen với ngôn ngữ giao tiếp bằng ký
hiệu. Đó là những hình khắc trên đá mô tả những chuyến đi săn hay xâm
chiếm đất đai giữa các bộ lạc. Lịch sử hình thành ngôn ngữ giao tiếp có
từ rất lâu và khá đa dạng. Có thể kể ra ở đây như chữ tượng hình của
người Ai cập cổ đại, chữ viết tay của người Trung Quốc hay những bản
thảo của người trung cổ. Tuy nhiên, thiết kế dành cho in ấn chỉ ra đời
sau khi máy in được phát minh. Và cũng từ đó, thiết kế đồ họa được hình
thành.
Mặc dù thiết kế đồ họa có vai trò rất quan trọng, song thuật ngữ này
mới chỉ trở nên phổ biến trong thời gian gần đây, do một nhà thiết kế
người Mỹ là William Addison Dwinggins sáng tạo ra vào năm 1922 và chỉ
trở nên thông dụng sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Cha đẻ của những thiết kế dành cho quảng cáo là Johann Gutenberg,
sinh ra tại Mainz, Đức. Gutenberg là người đầu tiên phát triển kỹ thuật
in và cùng với đó là sự ra đời của bản khắc chữ di động vào năm 1440.
Trong vòng 6 năm, William Caxton đã thành lập 6 xưởng in tại Anh và
Venice. Tính đến cuối thế kỷ 15 đã có khoảng hơn 400 máy in. Nhờ đó mà
các kiến thức và thông tin được truyền bá nhanh và rộng hơn.
Một bước tiến nữa trong kỹ thuật in là vào cuối thế kỷ 18, cùng với
những phát minh về máy sắp chữ (Linotype năm 1886 và Monotype năm 1887),
máy in đã ra đời làm gia tăng đòi hỏi đội ngũ các chuyên gia ngành in
ấn. Khi cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra khắp châu Âu, mọi người đổ xô
về những thị trấn và thành phố để tìm việc, mạng lưới đường sắt phát
triển, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cũng tăng lên. Đây chính là tiền đề
cho sự phát triển của một hệ thống thông tin truyền thông mới.
Năm 1904, kỹ thuật in offset ra đời cùng với sự phát triển của ngành
sản xuất mực in, giấy, các phát minh về máy tạo nếp gấp, dập ghim và
đóng gáy sách, in máy đã trở nên linh hoạt và đa dạng hơn nhiều so với
in thủ công. Hơn nữa, sự phát triển của quảng cáo đã làm cho hệ thống
thông tin truyền thông phụ thuộc nhiều vào in ấn, mặc dù sau này còn có
đài, ti vi và phim ảnh. Vai trò của các nhà thiết kế cũng trở nên quan
trọng hơn nhiều.
Ban đầu, việc in ấn còn thủ công với những hình minh họa khắc sẵn
trên bản khắc gỗ, bản in đá hay bản kẽm còn các dấu chấm được khắc trên
một trục lăn bằng thép mạ đồng. Sau đó, người ta dần phát triển lên
thành máy sắp chữ và máy in. In ấn bị trì hoãn do chiến tranh thế giới
thứ nhất và phải mãi đến khi Addison Dwiggin sáng tạo ra thuật ngữ
“thiết kế đồ họa” vào đầu những năm 20 thế kỷ 19 thì mới khởi sắc trở
lại.
Những xu hướng nền tảng của thiết kế đồ họa hiện đại
Cuối thế kỳ 19 là thời kỳ ảm đạm của ngành thiết kế và kỹ thuật tạo
chữ song thiết kế trong in ấn lại có bước phát triển đáng kể. Đó là sự
ra đời của kiểu chữ gạch chân và có trang trí của William Morris trong
trào lưu Mỹ thuật và Thủ công, hay Henri de Toulouse-Lautrec, Aubrey
Beardsley, Alphonse Mucha và Gustav Klimt của trào lưu Art Nouveau.
Ngoài ra, còn có kiểu chữ Gill Sans của Edward Gill vào năm 1915. Và đến
năm những năm 1930, những thiết kế của Bauhaus đã thực sự trở thành
tiên phong cho xu hướng “kỹ thuật tạo chữ mới.”
Bauhaus là trường dạy thiết kế đầu tiên nhằm kết nối giữa nghệ thuật
và công nghiệp, loại bỏ những khác biệt giữa nghệ thuật và kỹ thuật. Các
học viên của trường Bauhaus, ngoài được dạy về kiến trúc còn được
nghiên cứu về hai mảng của thiết kế đồ họa là kỹ thuật tạo chữ và thuật
nhiếp ảnh.
Trong suốt những chiến tranh thế giới thứ hai, Bauhaus lại khởi đầu
cho xu hướng Swiss School, một xu hướng hiện đại trong thiết kế đồ họa
với kiểu International Graphic. Các kiểu chữ phần lớn đều là chữ thẳng,
rõ ràng và trông rất đơn giản. Phải kể ra ở đây có các nhà thiết kế của
Anh, Mỹ với các tranh cổ động khá ấn tượng. Hay F.H.K Henrison và Abram
Games thiên về ý nghĩa của tác phẩm.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, các nhà thiết kế ở Mỹ và Châu Âu đã
tiên phong trong việc kết hợp chữ với hình ảnh, tạo kiểu chữ rất ấn
tượng và linh hoạt. Suốt những năm từ thời kỳ hậu chiến cho đến cuối
những năm 1950 sử dụng thiết kế đồ họa trong quảng cáo đã có nhiều bước
đột phá.
Paul Rand (làm việc cho IBM, UPS và Hãng ABC Television) và Herbert
Matter (thiết kế cho Knoll International and Condé Nast) đã chứng minh
rằng thiết kế đồ họa cuối cùng cũng được công nhận là một nhánh độc lập
của thiết kế nói chung. Cùng với đó, thiết kế đồ họa ngày càng trở nên
quan trọng hơn trong các chiến dịch xúc tiến và quảng cáo sản phẩm của
các công ty. Họ ngay càng thuê nhiều hơn các nhà thiết kế đồ họa để tạo
ra sự khác biệt của sản phẩm công ty họ với những đối thủ của mình.
Những xu hướng bị lãng quên
Trước những năm 1960, thế hệ những nhà thiết kế trẻ hơn đã đặt câu
hỏi về tính thẩm mỹ nhàm chán trong xu hướng cận đại, và một kỷ nguyên
mới của kinh nghiệm và chủ nghĩa thể hiện ra đời. Thiết kế đồ họa hướng
tới Pop Art, nó đã chịu ảnh hưởng nhiều của nghệ thuật trong quảng cáo
và mang lại hơi thở mới cho ngôn ngữ ký hiệu này. Đến cuối thập niên 60,
tranh ảnh cổ động chống chiến tranh Việt Nam đã không còn theo khuynh
hướng của xu hướng cận đại nữa.
Ngành xuất bản báo chí trong những năm 1950 đã tập trung vào các mẫu
thiết kế thiên về nhiếp ảnh hơn là minh họa. Mở đầu là Picture Post và
đến những năm 60 thì có nhiều tạp chí áp dụng cách này hơn, tiêu biểu là
tạp chí Oz do Martin Sharp phụ trách Mỹ thuật. Dần dần, phương thức này
đã trở thành xu thế chủ đạo trong lĩnh vực xuất bản.
Ảnh hưởng của nạn thuốc phiện ở San Francisco cuối những năm 1960 đã
dẫn tới các thiết kế theo kiểu hippy đa màu sắc, đa tầng lớp và đa diện,
điển hình là bìa Album Disraeli Gear của Cream do Martin Sharp thực
hiện. Phong cách này hoàn toàn tương phản với Swiss School. Cuối thập
niên 60, đầu thập niên 70, trào lưu hippy bắt đầu sụp đổ, thuốc gây
nghiện bị kiểm soát và kinh doanh chuyển sang hướng mới, mang trở lại
những khái niệm về tình yêu và hòa bình nhằm đánh thức giới trẻ. Mối
liên hệ giữa thiết kế đồ họa và văn hóa cộng đồng chuyển sang một hướng
mới.
Từ giữa cho đến cuối những năm 1970, nhạc Punk thống trị nước Mỹ và
sau đó lan sang Anh, thiết kế đồ họa lại thêm một lần nữa bước một bước
lùi. Nhạc Punk giống như chất xúc tác cho sự thay đổi. Những mẫu thiết
kế đồ họa thời kỳ này đều mang phong cách giận dữ và tự do thái quá,
luôn thể hiện bản thân và những phản ứng gay gắt của một lớp trẻ thoái
hóa. Không những thế, tác phẩm thời gian này còn xem thường tính tinh
tế, lịch thiệp của xu hướng Cận đại. Tiêu biểu cho phong cách này là
Jamie Reid’s với những tác phẩm thiết kế bìa đĩa choThe Sex Pistols:
hình ảnh nữ hoàng với những ghim băng ghim trên miệng, những câu khẩu
hiệu: “Không có tương lai” hay “Đừng bao giờ tin tưởng một kẻ Hippy”. Rõ
ràng, Punk đã đi ngược lại với nghệ thuật thiết kế.
Làn sóng mới và kỹ thuật mới
Cùng thời gian với trào lưu Punk, tại Mỹ và Hà Lan đã xuất hiện một
trào lưu thiết kế đồ họa: hậu cận đại. Trào lưu này đã có thể đã chấm
dứt xu hướng cận đại khi đưa ra các tác phẩm nhằm lôi kéo người xem đến
với những phương tiện thông tin truyền thông khác như quảng cáo, nghệ
thuật, phim và nhiếp ảnh. Chính làn sóng này là bước mở đầu cho việc sử
dụng máy vi tính như một công cụ thiết kế.
Đến giữa thập niên 80, Apple cho ra đời Macintosh khiến cho trào lưu
Làn sóng mới trở nên sôi động hơn, và đặc biệt là mở đường cho những
tiến bộ kỹ thuật cũng như những sáng tạo mới. April Greiman, thuộc trào
lưu Làn sóng mới ở California là người tiên phong trong việc khai thác
những khả năng của công nghệ mới nhằm sắp đặt các ký tự với hình ảnh,
một mảng quan trọng của thiết kế đồ họa. 20 năm sau, với sự hỗ trợ đắc
lực của kỹ thuật số, bản chất của thiết kế đồ họa đã thay đổi và dường
như sự ra đời của các tác phẩm mới chẳng bao giờ kết thúc (Neville
Brody, David Carson, Jonathan BarnBrook).
Liệu thiết kế đồ họa và thiết kế cho in ấn sẽ tiếp tục đi đến đâu?
Vấn đề đáng tranh luận nhất là việc in ấn ngày nay dựa vào chủ yếu là in
kỹ thuật số trong khi chất lượng thì không cao hơn nhiều so với in
truyền thống. Do vậy, có thể nói xu hướng ngày nay là giải quyết vấn đề
giá cả, đồng thời, nâng cao chất lượng các tác phẩm. Đến khi đó, thiết
kế đồ họa vẫn sẽ tạo ra những ngôn ngữ thiết kế và phương tiện giao tiếp
bằng ký hiệu, thậm chí là có thể không cần đến sự chấp nhận của xã hội.
MinhPC dịch từ Computer Art 7/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét